QPTD -Thứ Tư, 24/08/2011, 23:36 (GMT+7)
Tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới (Phần I)

Tăng cường sức mạnh quốc phòng (SMQP), bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN là  nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong điều kiện hiện nay, khi tình hình trong nước, khu vực và quốc tế có những diễn biến phức tạp, Đảng ta cần có những bổ sung, phát triển về nhận thức và tư duy lý luận mới về vấn đề này. Với tinh thần đó, Tạp chí Quốc phòng toàn dân xin giới thiệu với bạn đọc chùm bài  về chủ đề trên.

I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ TĂNG CƯỜNG SỨC MẠNH QUỐC PHÒNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC

Nhìn lại hơn 20 năm về trước, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới trong bối cảnh vô cùng khó khăn, sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến cục diện chính trị thế giới. CNXH hiện thực và các lực lượng cách mạng thế giới lâm vào thoái trào; tương quan lực lượng thay đổi có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Đất nước ta tuy hoà bình, nhưng hậu quả của hơn 30 năm chiến tranh còn hết sức nặng nề, lại rơi vào khủng hoảng kinh tế-xã hội (KT-XH) trầm trọng. Lợi dụng khó khăn đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tập trung chống phá cách mạng nước ta quyết liệt, bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” với những âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt; đồng thời, tăng cường các hoạt động bao vây, cấm vận, cô lập, kết hợp với răn đe quân sự, gây sức ép từ nhiều phía, hòng làm cho nước ta suy yếu toàn diện và dẫn đến sụp đổ. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã vững vàng, tỉnh táo, nhạy bén, kịp thời đổi mới tư duy về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; xác lập đúng đắn các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách và đề ra nhiều giải pháp phù hợp để tăng cường SMQP, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tiếp tục đưa đất nước đi theo con đường XHCN.

Ngày nay, sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH), xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta diễn ra trong điều kiện đất nước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. Bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tuy vẫn trong xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển, nhưng còn diễn biến phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố khó lường gây mất an ninh, ổn định. Bởi vậy, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác, tập trung thích đáng cho nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ này được thực hiện trong điều kiện chúng ta có thế và lực mới, với nhiều thuận lợi cơ bản do công cuộc đổi mới tạo ra; nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, nhất là việc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên biển, đảo và chống lại mưu đồ lợi dụng “mở cửa” để đẩy mạnh “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Chỉ có tập trung giải quyết thấu đáo, triệt để những thách thức đó mới tạo ra nền tảng vững chắc để giữ vững chế độ, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới đã và đang đặt ra những yêu cầu mới rất nặng nề. Trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta đã chỉ rõ bảo vệ Tổ quốc XHCN ngày nay phải là: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta1. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, chúng ta cần có SMQP tương ứng. Theo quan điểm của Đảng ta, đó là “sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị2, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, phát huy nội lực với tranh thủ ngoại lực, trong đó sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định. Sức mạnh đó được tạo ra trên cơ sở xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), thế trận QPTD độc lập, tự chủ, vững chắc, từng bước hiện đại, gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân; của đường lối và nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhằm bảo đảm môi trường hoà bình, ổn định lâu dài cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Nội dung trên cho thấy, cơ sở của SMQP, bảo vệ Tổ quốc theo quan điểm của Đảng tập trung ở mấy vấn đề sau:

Trước hết, phải tiếp tục “xây dựng thế trận lòng dân vững chắc3, làm nền tảng phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Hơn lúc nào hết, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, vấn đề “lòng dân”, xây dựng “thế trận lòng dân” có vai trò cực kỳ quan trọng. Trong tư duy của Đảng, xây dựng “thế trận lòng dân” là yêu cầu bức thiết, là nội dung cơ bản và là vấn đề “mấu chốt” của việc xây dựng thế trận QPTD bảo vệ Tổ quốc XHCN. Điều đó thể hiện sự vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử; là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới truyền thống, kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta trong điều kiện mới. Đó là yếu tố quyết định bảo đảm chắc chắn nhất cho sự bền vững của giang sơn, sự bình yên của muôn dân, trăm họ; là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo khả năng răn đe, làm nhụt ý chí xâm lược, phá hoại của các thế lực thù địch.

Hai là, tập trung phát triển bền vững mọi mặt đời sống KT-XH, tạo cơ sở, nền tảng vững chắc cho củng cố quốc phòng. Phát triển KT-XH đi đôi với tăng cường sức mạnh QP-AN, trong đó vấn đề quan trọng hàng đầu là “kết hợp chặt chẽ kinh tế với QP-AN, QP-AN với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT-XH4. Quan điểm trên thể hiện sự phát triển nhận thức của Đảng ta về quy luật của cách mạng: dựng nước đi đôi với giữ nước; đồng thời, khắc phục một số biểu hiện nhận thức không đúng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, như: quan tâm đến lợi ích kinh tế đơn thuần trong phát triển kinh tế, cho rằng các đơn vị và tổ chức kinh tế chỉ làm nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, còn nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là của riêng lực lượng vũ trang (LLVT); hoặc nhấn mạnh lợi ích quân sự đơn thuần trong thực hiện chiến lược QP-AN, cho rằng hoạt động của LLVT chỉ thuần tuý là hoạt động quân sự mà không thấy hết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và củng cố QP-AN, không thấy rằng: LLVT cũng cần phải tham gia vào phát triển KT-XH. Do đó, việc nhận thức đúng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng sẽ tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển KT-XH với củng cố QP-AN trong cùng một mục tiêu thống nhất: vừa bảo đảm phát triển của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, vừa giữ vững độc lập dân tộc và CNXH.

Ba là, kết hợp giữa QP-AN và đối ngoại. Vấn đề này được đề cập rõ trong Nghị quyết Trung ương 8 (Khoá IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: “Thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền QPTD và an ninh nhân dân, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, trước hết tập trung hoàn chỉnh pháp luật về QP-AN và đối ngoại; xây dựng quy chế thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại và quy chế phối hợp QP-AN, đối ngoại5. Tiếp đó, Đại hội X đã phát triển: “bổ sung quy chế phối hợp hoạt động giữa QP-AN, đối ngoại và các bộ, ngành có liên quan trong phân tích, dự báo tình hình và làm tham mưu đề xuất các giải pháp thực hiện6. Điều đó cho thấy vai trò rất quan trọng của sự kết hợp giữa QP-AN với đối ngoại và sự cần thiết của sự kết hợp này vì mục tiêu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Trong thời gian tới, việc kết hợp hoạt động QP-AN với hoạt động đối ngoại trong xây dựng và đấu tranh quốc phòng sẽ tiếp tục được triển khai thực hiện nhất quán theo đường lối đối ngoại của Đảng; trong đó, đấu tranh trên mặt trận ngoại giao phải góp phần tăng cường nội lực cho QP-AN; thực hiện công tác biên giới lãnh thổ và ngăn chặn, đẩy lùi các âm mưu và hành động lợi dụng các vấn đề “dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Bốn là, xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao; trong đó, Quân đội nhân dân (QĐND) được xác định là lực lượng quan trọng nhất, làm nòng cốt trong sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Vì vậy, phải xây dựng QĐND “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu7; đồng thời, phải “quan tâm xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên mạnh8, đáp ứng yêu cầu bảo vệ địa phương, cơ sở và bảo đảm khi cần thiết có thể động viên được nhanh chóng theo kế hoạch. Đồng thời, phải chú trọng đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng gắn chặt với công nghiệp dân sinh, có cơ cấu hợp lý trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia; kết hợp chặt chẽ các trình độ, các loại hình công nghệ; trong đó, ưu tiên những công nghệ hiện đại, hiệu quả cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho LLVT nhân dân, QĐND trong tình hình mới.

Năm là, xác lập cơ chế lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước phù hợp với những phát triển mới của sự nghiệp quốc phòng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định vai trò của Đảng và Nhà nước ta, do đó trong tình hình mới cần tiếp tục “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội, Công an nhân dân và sự nghiệp QP-AN9. Đây vừa là quan điểm, vừa là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với QĐND và sự nghiệp củng cố quốc phòng. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo QĐND và sự nghiệp quốc phòng, không chia quyền, nhường quyền cho bất cứ một đảng phái nào; không thông qua một khâu, tổ chức trung gian nào; lãnh đạo toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, lãnh đạo mọi lĩnh vực, mọi nhiệm vụ, mọi nơi, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào. Sự lãnh đạo của Đảng tập trung vào Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị; tổ chức đảng các cấp có trách nhiệm lãnh đạo LLVT và sự nghiệp quốc phòng theo chức năng, nhiệm vụ, nội dung và phạm vi của từng cấp. Đối với Nhà nước, tập trung vào xây dựng và chỉ đạo thực hiện quản lý nhà nước đối với QĐND và sự nghiệp quốc phòng trên phạm vi cả nước cũng như đối với từng cấp, từng ngành; xác định trách nhiệm quản lý nhà nước về quốc phòng đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chuyên trách và xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về quốc phòng; hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước đối với nhiệm vụ quốc phòng; tiến hành thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác quản lý nhà nước về quốc phòng. Trên cơ sở các nguyên tắc, nhiệm vụ cơ bản đó, tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với QĐND và sự nghiệp quốc phòng phù hợp với từng cấp từ Trung ương, ngành đến địa phương, cơ sở.

ĐỒNG ĐỨC - PHẠM TRANG - QUANG CHUYÊN

(Số sau: II. Thực tiễn và vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc XHCN)

 ___________

1 - ĐCSVN- Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng cấp cơ sở), Nxb CTQG, H. 4-2010, tr. 12.

2- Sđd, tr. 64.

3- Sđd, tr. 64.

4- Sđd, tr. 13.

5- Ban TT-VHTƯ, Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX), Nxb CTQG, H. 2003, tr. 55.

6- ĐCSVN-Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 111.

7- ĐCSVN-Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng, Sđd, tr. 13.

8- Sđd, tr. 64.

9- Sđd, tr. 13.

 

Ý kiến bạn đọc (0)