QPTD -Thứ Sáu, 16/09/2011, 23:18 (GMT+7)
Kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường quốc phòng-an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới

LTS. Xuất phát từ vị trí đặc biệt quan trọng của vùng biển Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế, Hội nghị Trung ương 4 (khoá X) của Đảng đã ra Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Điều đó thể hiện tư duy chiến lược nhạy bén của Đảng và Nhà nước ta trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước đang có nhiều biến động, phức tạp. Để giúp bạn đọc có thêm cơ sở tham khảo, nghiên cứu, phân tích, đánh giá… về chủ đề trên, Tạp chí Quốc phòng toàn dân (từ số 9-2008) sẽ lần lượt đăng chùm 3 bài của đồng tác giả Quốc Toản, Mạnh Hùng, Mạnh Dũng.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

  

I

Vùng biển Việt Nam và quan điểm của Đảng ta

 về bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

  

Ngay từ trước thềm thế kỷ này, nhiều nhà nghiên cứu chiến lược đã dự báo: Thế kỷ XXI là thế kỷ của biển và đại dương. Đến nay, thực tiễn đang cho thấy nhận định trên là có cơ sở. Với nguồn tài nguyên phong phú, chưa được khai thác nhiều, biển ngày càng trở nên quan trọng đối với con người, nhất là trong bối cảnh nguồn tài nguyên trên đất liền dần cạn kiệt. Các quốc gia có biển đang giữ lợi thế lớn không thể phủ nhận, và đang nỗ lực tìm mọi cách vươn ra biển, khai thác nguồn lợi biển để phát triển đất nước, gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh vùng biển.

Việt Nam là một quốc gia có biển, đương nhiên không nằm ngoài xu thế đó. Vùng biển của Việt Nam thuộc Biển Đông - nơi được bao bọc bởi 9 quốc gia trong khu vực1; có nguồn tài nguyên thuỷ sản, khoáng sản phong phú, trữ lượng lớn; có đường hàng hải quốc tế huyết mạch mang tính chiến lược không chỉ đối với các quốc gia trong khu vực mà còn đối với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (Việt Nam tham gia từ năm 1994), nước ta có 5 vùng biển (nội thuỷ, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) với tổng diện tích khoảng 1 triệu km2, có trên 3 ngàn đảo lớn nhỏ, trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Nằm ở bán đảo Đông Dương, nước ta có bờ biển dài 3.260km, có 28/63 tỉnh (thành phố) giáp biển, với nhiều cảng biển quan trọng, danh lam thắng cảnh và khu du lịch nổi tiếng. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của các ngành, địa phương ven biển, kinh tế biển, nhất là những ngành kinh tế mũi nhọn gắn liền với biển, như: du lịch, dầu khí, giao thông vận tải biển, công nghiệp đóng tàu… đang từng bước phát triển, đóng góp với tỉ trọng ngày càng lớn vào GDP của cả nước. Nếu năm 2003, kinh tế biển và vùng ven biển đóng góp 39,67% GDP của cả nước thì năm 2007, chỉ số đó là 48%, trong đó riêng xuất khẩu thuỷ sản đạt 3,2 tỷ USD, dầu khí đạt 7 tỉ USD và đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước. Cùng với đó, kinh tế biển và vùng ven biển còn tạo việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Những lợi thế về vị trí địa lý tự nhiên và tiềm năng to lớn của nguồn tài nguyên biển, vùng biển nước ta có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng - an ninh (QP-AN) trên biển hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập và chưa tương xứng với vị trí, tiềm năng, thế mạnh của biển và vùng biển nước ta. Bên cạnh đó, còn một số vấn đề tồn tại khác rất đáng quan tâm như: phòng-chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm-cứu nạn trên biển; bảo vệ tài nguyên và môi trường biển… Đặc biệt là tình hình Biển Đông đang diễn biến rất phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, không thể xem thường. Có những thời điểm, ở một số nơi đã xảy ra tranh chấp gay gắt, quyết liệt về chủ quyền giữa các quốc gia có vùng biển liên quan. Điều đáng quan ngại là, xuất phát từ vị trí địa chính trị, kinh tế, quân sự… của Biển Đông nên một số nước lớn trong và ngoài khu vực có những toan tính về lợi ích chiến lược hết sức nguy hiểm, làm cho tình hình Biển Đông vốn đã phức tạp lại càng phức tạp, nhạy cảm và khó lường hơn. Tất cả những điểm đó đã và đang tác động mạnh đến chiến lược biển, phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường sức mạnh QP-AN và bảo vệ chủ quyền vùng biển của nước ta.

Trên cơ sở nhận thức rõ tầm quan trọng của Biển Đông và vùng biển nước ta, cũng như đánh giá đúng tình hình mọi mặt, từ nhiều năm qua, Đảng ta đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị về phát triển kinh tế biển và bảo đảm QP-AN trên biển. Ngày 6-5-1993, Bộ Chính trị (Khóa VII) đã ra Nghị quyết 03/NQ-TƯ về "Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt", và định hướng "tiến mạnh ra khơi" để khai thác và bảo vệ vùng biển; ngày 22-9-1997, Bộ Chính trị (Khóa VIII) tiếp tục ra Chỉ thị 20-CT/TƯ về "Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Tiếp đó, nhằm cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước đã xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình Biển Đông - Hải đảo, với kinh phí đầu tư lớn. Đặc biệt, với tư duy đổi mới, Hội nghị Trung ương 4 (Khóa X) đã ra Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó nêu rõ vị trí, tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông và vùng biển nước ta; đồng thời, xác định quan điểm, phương châm chỉ đạo, mục tiêu, những nhiệm vụ và giải pháp lớn trong triển khai tổ chức thực hiện. Thông qua đó, một lần nữa, Nghị quyết của Đảng đã thể hiện nguyện vọng và ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta: phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo đảm QP-AN, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển. Điều đó hoàn toàn thống nhất, hay nói rõ hơn là sự cụ thể hóa quan điểm, mục tiêu mà Đại hội X của Đảng đã xác định: giữ vững hòa bình để phát triển kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; đồng thời, bảo đảm QP-AN, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.

Vùng biển cùng với vùng đất, vùng trời là lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia vùng biển là trách nhiệm chính trị, là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Vì thế, trong quá trình thực hiện Chiến lược biển, phải thấu suốt quan điểm của Đảng là: xây dựng phải đi đôi với bảo vệ, phát triển kinh tế biển phải gắn chặt với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển đảo để phát triển kinh tế biển. Triệt để tận dụng những thành tựu do sự nghiệp CNH, HĐH đem lại, nhất là về khoa học-công nghệ, nguồn nhân lực, vốn đầu tư và phương tiện, trang bị kỹ thuật... để đẩy mạnh phát triển kinh tế biển; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế biển là một bước tăng cường tiềm lực QP-AN trên biển. Thường xuyên chú trọng xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và pháp lý trên biển, trong đó QP-AN là cốt lõi; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với QP-AN và đối ngoại; không ngừng tăng cường tiềm lực QP-AN, chú trọng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên biển ngày càng vững chắc. Thường xuyên chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là lực lượng hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng và dân quân, tự vệ biển, đủ sức làm nòng cốt trong nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Phát huy mọi nguồn lực, lấy nội lực là chính; đồng thời, tranh thủ tối đa sự giúp đỡ từ bên ngoài thông qua việc thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện vừa hợp tác vừa đấu tranh, tránh để bị cô lập, đối đầu và xảy ra xung đột vũ trang trên biển.

Về vấn đề Biển Đông, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như những bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển, nhất là đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tiến tới giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề Biển Đông, các bên liên quan cần duy trì sự ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Cùng nhau trao đổi, tìm kiếm những hình thức hợp tác thích hợp để giải quyết những tranh chấp, bất đồng trên biển, nhằm hướng tới mục tiêu chung: giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển vì lợi ích của mỗi quốc gia.

Trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động và trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH, mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời gian tới, việc phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường QP-AN, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa có những thách thức không nhỏ. Điều quan trọng trước hết là phải nắm vững chủ trương, quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng được thể hiện thông qua các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X), Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX). Trên cơ sở đó, đánh giá đúng tình hình mọi mặt, thực trạng kinh tế biển và QP-AN trên biển, tạo cơ sở cho việc xây dựng các đề án chuyên ngành, quy hoạch, kế hoạch, những giải pháp đồng bộ và chương trình hành động, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường QP-AN, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới.

(Số sau: II. Thực trạng kinh tế biển, quốc phòng - an ninh trên biển và vấn đề đặt ra).

Quốc Toản, Mạnh Hùng, Mạnh Dũng

_____________

1- Gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Căm-pu-chia, Thái Lan, Ma-lai-xia, Sing-ga-po, In-đô-nê-xia, Bru-nây và Phi-lip-pin.

 

Ý kiến bạn đọc (0)