QPTD -Thứ Tư, 30/11/2011, 00:43 (GMT+7)
Bước phát triển mới trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân ở tỉnh Gia Lai
Gia Lai là địa bàn chiến lược quan trọng trong thế trận phòng thủ ở Tây Nguyên và Quân khu 5. Đây cũng là nơi trọng điểm tập trung chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Vì vậy, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay, việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện thế trận quốc phòng toàn dân (QPTD) trên địa bàn Tỉnh là một vấn đề hết sức quan trọng, được cấp ủy, chính quyền, nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang (LLVT) địa phương nỗ lực thực hiện, đạt được kết quả trên nhiều mặt.

Kết quả nổi bật là, Tỉnh đã thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, đoàn thể và học sinh, sinh viên. Trong đó, tập trung tuyên truyền, giáo dục để mọi người hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là việc chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để kích động tư tưởng ly khai trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số; khôi phục và mở rộng hoạt động của tổ chức phản động FULRO, khống chế, đe dọa cán bộ và nhân dân. Trên cơ sở đó, chủ động đề ra các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn các mầm mống gây bạo loạn, tư tưởng ly khai đòi thành lập “Nhà nước Đề-ga”, tổ chức vượt biên trái phép trong một bộ phận người dân tộc thiểu số. Chỉ trong hai năm 2005-2006, 80% cán bộ đối tượng 2 đã được bồi dưỡng kiến thức quốc phòng-an ninh (QP-AN) tại Trường Quân sự Quân khu; 70,4% cán bộ đối tượng 3 được bồi dưỡng kiến thức QP-AN tại Trường Quân sự Tỉnh; 72,6% cán bộ đối tượng 4 và 5 được bồi dưỡng kiến thức QP-AN tại các Trung tâm chính trị của huyện, thị xã, thành phố; mở một lớp bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho 30 chức sắc, chức việc tôn giáo; 99,8% học sinh, sinh viên các trường trung học phổ thông, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp-dạy nghề được học môn giáo dục quốc phòng; giáo dục quốc phòng còn được tiến hành sâu rộng trong nhân dân, thông qua các lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc, những ngày lễ lớn của đất nước, các phương tiện thông tin đại chúng và hoạt động tuyên truyền, vận động quần chúng của các tổ, đội công tác xây dựng cơ sở ở vùng sâu, vùng xa,... Những việc làm đó đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, thế hệ trẻ và nhân dân địa phương trong thực hiện nhiệm vụ QP-AN, xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân trong thời kỳ mới; “thế trận lòng dân” được củng cố và tăng cường, số đồng bào dân tộc thiểu số nghe theo bọn phản động FULRO xúi giục, kích động ngày càng giảm. Cùng với đó là việc tích cực xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, đề cao trách nhiệm, phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo, giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt; nêu cao tinh thần chủ động, khắc phục tình trạng bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ QP-AN, xây dựng LLVT địa phương. Bộ máy chính quyền được củng cố, phân cấp trách nhiệm rõ hơn cho các ngành, các địa phương, tạo thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về quốc phòng, triển khai xây dựng khu vực phòng thủ địa phương. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội được củng cố, tăng cường các hoạt động, hướng về cơ sở, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ QP-AN. Cơ chế lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ được vận hành thông suốt hơn, nhất là trong xử lý các tình huống phức tạp xảy ra ở địa phương, cơ sở.

Trong phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), kết hợp kinh tế với quốc phòng, Tỉnh đã coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nông nghiệp một cách toàn diện để đáp ứng nhu cầu bảo đảm lương thực, thực phẩm tại chỗ cho các LLVT và nhân dân; đồng thời, có nguồn dự trữ sẵn sàng phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng. Công nghiệp, tiểu-thủ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phát triển nhanh, đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động; đủ khả năng sản xuất, sửa chữa một số máy móc, phương tiện phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng địa phương. Các Chương trình 132, 134, 135 được thực hiện có hiệu quả, từ đó đã định canh, định cư được 80% số làng đồng bào dân tộc thiểu số; tỷ lệ hộ đói nghèo từ 22,4% năm 2001 giảm xuống còn 15% năm 2006 (theo tiêu chí cũ); nhiều điểm dân cư được sắp xếp, bố trí ra sát đường biên giới, cùng với các đơn vị kinh tế-quốc phòng của Binh đoàn 15, tạo thành tuyến phòng thủ phía trước ngày càng vững chắc trong thế trận QPTD ở địa phương. Tỉnh đã đầu tư nhiều tiền của, công sức xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH, trong đó các tuyến quốc lộ 19, 14 đi qua địa bàn và các tỉnh lộ đều được nâng cấp; 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; cơ bản hoàn thành tuyến đường dọc biên giới, bảo đảm cơ động được lực lượng và phương tiện kỹ thuật của LLVT trong mùa khô. Hệ thống bưu chính-viễn thông phát triển mạnh từ tỉnh đến cơ sở, kết hợp với mạng thông tin quân sự đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh và bảo đảm cho các hoạt động QP-AN. Hệ thống y tế được củng cố, đến nay có 48% các trạm y tế xã, phường, thị trấn và phòng khám khu vực có bác sĩ, 94,2% thôn, làng có nhân viên y tế; các bệnh xá, trạm y tế quân-dân y kết hợp được tổ chức từ tỉnh đến cơ sở, thực hiện tốt nhiệm vụ khám, chữa bệnh cho nhân dân và LLVT. Các chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo được thực hiện tốt, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân, củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước, góp phần đập tan luận điệu xuyên tạc, kích động, lôi kéo quần chúng của bọn phản động và các thế lực thù địch.
Về QP-AN, các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện biên giới được xây dựng theo hướng vững mạnh toàn diện; bố trí phù hợp với phương án phòng thủ bảo vệ địa phương. Các đồn Biên phòng được bố trí hợp lý, gắn với 7 xã biên giới; thường xuyên phối hợp với cấp ủy, chính quyền các xã biên giới và các đơn vị kinh tế-quốc phòng tuyên truyền, vận động nhân dân phát triển kinh tế gia đình, tham gia phong trào bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên tuyến biên giới. Lực lượng dự bị động viên được xây dựng theo quy định của Pháp lệnh đã ban hành. Lực lượng dân quân, tự vệ được xây dựng phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ QP-AN ở địa phương, cơ sở; bảo đảm 8 huyện trọng điểm có 8 đại đội dân quân cơ động; các xã trong toàn Tỉnh đều tổ chức 1 trung đội dân quân cơ động; mỗi làng, buôn tổ chức 1 tiểu đội dân quân tại chỗ. Việc xây dựng xã, phường vững mạnh toàn diện, vững mạnh về QP-AN cũng được quan tâm, đánh giá đúng thực chất hơn; hiện nay, toàn Tỉnh có 10% số xã, phường đạt vững mạnh toàn diện, 20% số xã, phường đạt vững mạnh về QP-AN. Quyết tâm tác chiến phòng thủ và hệ thống các kế hoạch chiến đấu, kế hoạch bảo đảm nhu cầu hoạt động quân sự, quốc phòng năm đầu chiến tranh, kế hoạch kết hợp kinh tế với quốc phòng... từ tỉnh đến các huyện, thành phố, thị xã được xây dựng, phê duyệt và quản lý theo phân cấp. Các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh được thực hiện nghiêm túc theo sự chỉ đạo của Quân khu; hằng năm, Tỉnh chỉ đạo 20% số huyện, thành phố, thị xã và 20% số xã diễn tập phòng thủ, chiến đấu trị an. Tỉnh đã có kế hoạch xây dựng các công trình phòng thủ đến năm 2020; hoàn thành xây dựng sở chỉ huy cơ bản của Tỉnh và một số công trình quốc phòng trên tuyến biên giới. Các căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần-kỹ thuật của Tỉnh và 15 huyện, thành phố, thị xã được quy hoạch; bước đầu đã đầu tư 21.390 triệu đồng xây dựng căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần-kỹ thuật của Tỉnh và xây dựng các công trình phòng thủ, bảo đảm hậu cần cho lực lượng dự bị động viên, lực lượng làm nhiệm vụ A2.
 Những kết quả nêu trên đã tạo nên thế và lực mới trong thế trận QPTD trên địa bàn Tỉnh. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, tỉnh Gia Lai vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng hiệu quả chưa cao. “Thế trận lòng dân” chưa thật sự vững chắc, một bộ phận quần chúng, nhất là trong đồng bào các dân tộc thiểu số còn bị các thế lực thù địch và bọn phản động lừa mỵ, lôi kéo, mua chuộc, ép buộc, gây mất ổn định về chính trị. Thế trận phòng thủ đã được triển khai một bước theo kế hoạch, nhưng kết quả đạt được còn hạn chế; việc đầu tư kinh phí xây dựng còn nhiều bất cập. Chất lượng chính trị và độ tin cậy của lực lượng dự bị động viên, dân quân, tự vệ chưa đồng đều. Cơ sở chính trị ở một số nơi còn yếu. Các giải pháp đấu tranh loại bỏ tổ chức FULRO hiệu quả còn thấp... Nguyên nhân của tình hình này có nhiều, song chủ yếu là do việc lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện chưa kiên quyết, còn thiếu năng động, sáng tạo, cá biệt có nơi chưa thực sự vào cuộc. Mặt khác, sự chỉ đạo của các bộ, ngành Trung ương còn thiếu những hướng dẫn cụ thể nên việc triển khai thực hiện của địa phương còn nhiều lúng túng, dẫn đến kết quả và chất lượng trên một số mặt chưa đạt được yêu cầu như mong muốn.
Để phát huy kết quả đạt được, kịp thời khắc phục hạn chế, thiếu sót trong việc xây dựng thế trận QPTD trên địa bàn, tỉnh Gia Lai đã và đang tập trung thực hiện đồng bộ các biện pháp sau:
1- Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng, xây dựng ý thức cảnh giác, ý thức  chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhân dân và LLVT, làm thất bại mọi ý đồ đen tối của bọn phản động và các thế lực thù địch, nhất là các thủ đoạn lợi dụng chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng để tuyên truyền, phát triển đạo trái pháp luật, kích động một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số gây rối, làm mất ổn định chính trị trên địa bàn, từ đó tạo cớ can thiệp sâu vào nội bộ ta.
2- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng; hiệu quả và năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH và bảo đảm QP-AN. Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội từ cấp tỉnh đến cơ sở vững mạnh; nâng cao khả năng tập hợp quần chúng, phát huy sức mạnh toàn dân trong xây dựng nền QPTD, xây dựng thế trận QPTD, đặc biệt là “thế trận lòng dân”, trước hết tập trung làm tốt ở 70 xã trọng yếu về QP-AN của Tỉnh.
3- Tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa IX), Quyết định số 168 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH gắn với bảo đảm QP-AN trên địa bàn Tây Nguyên, tạo cơ sở, nền tảng để xây dựng thế trận QPTD trên địa bàn Tỉnh ngày càng vững chắc. Thực hiện tốt việc quy hoạch các khu đất dùng cho mục đích quốc phòng, khu vực kết hợp kinh tế với quốc phòng, khu vực liên doanh liên kết với nước ngoài, ngăn ngừa các thủ đoạn lợi dụng để chống phá của các thế lực thù địch. Các công trình xây dựng, các dự án, chương trình phát triển KT-XH nhất thiết phải bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, độc lập, chủ quyền và sẵn sàng đáp ứng yêu cầu phục vụ các hoạt động quốc phòng, tác chiến phòng thủ bảo vệ địa phương.
4- Tiến hành khảo sát, đánh giá việc xây dựng xã, phường vững mạnh toàn diện, vững mạnh về QP-AN; phấn đấu đến năm 2010 có 20% số xã, phường vững mạnh toàn diện, 40-45% xã, phường vững mạnh về QP-AN. Từng bước triển khai xây dựng sở chỉ huy, các căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần-kỹ thuật của Tỉnh và 15 huyện, thành phố, thị xã theo kế hoạch. Tổ chức khảo sát, quản lý chặt chẽ các hang động tự nhiên để có kế hoạch sử dụng khi cần thiết.    
5- Xây dựng các cơ quan quân sự, đơn vị bộ đội địa phương, lực lượng dự bị động viên và dân quân, tự vệ vững mạnh, làm nòng cốt trong xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD và tác chiến phòng thủ bảo vệ địa phương. Trước mắt, tập trung thực hiện có hiệu quả chỉ thị của Bộ Quốc phòng về xây dựng điểm Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Gia Lai vững mạnh toàn diện; đồng thời, xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ Ban chỉ huy Quân sự xã, phường, thị trấn vững mạnh, nâng cao chất lượng chính trị và độ tin cậy của lực lượng dân quân, tự vệ và dự bị động viên; thực hiện tốt quy chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, dân quân, tự vệ với lực lượng công an trong bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
Đại tá Dương Văn Trang
Tỉnh ủy viên, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS Tỉnh
 

Ý kiến bạn đọc (0)